Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

Tín hiệu kỹ thuật VNIndex 07/07/2011


VN-Index tiếp tục xuất hiện cây nến bám cạnh trên của mô hình cái nêm với khối lượng duy trì ở mức thấp. Chỉ báo ADX đi ngang cho thấy sức mạnh xu hướng thị trường vẫn yếu. Hầu hết các chỉ báo động lượng đều cho xu hướng tăng nhẹ, trong đó chỉ báo Stochastic Oscillator vẫn tăng bền vững.

Hiện tại, đồ thị nến vẫn bám cạnh trên của mô hình cái nêm và tiến sát đến ngưỡng hỗ trợ mạnh 38,2% của Fibonacci (tức là ngưỡng hỗ trợ 425). Do đó, trong phiên giao dịch ngày mai nếu ngưỡng 425 là ngưỡng hỗ trợ tốt thì có khả năng VN-Index sẽ phá vỡ mô hình cái nêm và sẽ rất nguy hiểm nếu ngưỡng hỗ trợ này bị phá vỡ.

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

Tín hiệu kỹ thuật VNIndex 06/07/2011


Với khối lượng giao dịch thấp đã khiến cho VN-Index không thể phá được đường kháng cự là cạnh trên của mẫu hình cái nêm (Falling Wedge) được hình thành trong thời gian điều chỉnh vừa qua (tức là từ ngày 03/06/2011 đến nay). Chỉ báo Stochastic Oscillator vẫn tiếp tục duy trì tín hiệu phân kỳ, nhưng điểm đáng lưu ý ở đây là sức mạnh xu hướng thị trường tiếp tục suy yếu khi chỉ báo ADX vẫn giảm sâu. 

Nếu khối lượng giao dịch vẫn suy yếu và giảm dần thì rất khó có thể phá vỡ được mẫu hình cái nêm này. Do đó, chúng tôi cho rằng các nhà đầu tư vẫn không nên tham gia vào thị trường lúc và thận trọng theo dõi dấu hiệu phá vỡ mẫu hình cái nêm rõ ràng để có chiến lược giải ngân phù hợp.

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

Tín hiệu kỹ thuật VNIndex 05/07/2011


VN-Index có phiên giao dịch tích cực, xuất hiện khoảng trống tăng giá hẹp và đồ thị giá cắt đường hỗ trợ và chạm đường kháng cự của mô hình tam giác. Khối lượng giao dịch được cải thiện đáng kể so với phiên hôm qua.

Chỉ báo ADX giảm sâu và dãi Bollinger Bands có hiện tượng co thắt cho thấy thị trường vẫn duy trì trạng thái sideways trong biên độ hẹp. Trong phiên ngày mai VN-Index sẽ Test đường kháng cự của mẫu hình tam giác hướng xuống được hình thành trong tháng 6/2011, nếu không phá được đường kháng cự này thì VN-Index có khả năng giảm xuống ngưỡng hỗ trợ 420. Ngưỡng kháng cự 450 vẫn là ngưỡng kháng cự khó khăn nhất, cho nên xu hướng trong trung hạn vẫn là xu hướng giảm khi mà hầu hết các tín hiệu của các chỉ báo kỹ thuật và khối lượng giao dịch đều tiêu cực.

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011

Kinh tế Việt nam – nỗi lo giảm phát!

Markets.vn

Cuối tháng 9/2010, trong một hội nghị báo chí về lĩnh vực thị trường tài chính và chứng khoán, tôi đã đưa ra quan điểm rằng phần lớn các tổ chức nước ngoài lớn chưa quan tâm tới Việt nam bởi họ e ngại khả năng lạm phát đình đốn có thể xảy ra. 9 tháng đã trôi qua kể từ thời điểm đó, nền kinh tế và thị trường chứng khoán vẫn tiếp tục trong vòng luẩn quẩn. Mặt bằng lãi suất và lạm phát tiếp tục ở mức cao trong khi các doanh nghiệp đã và đang gặp nhiều khó khăn dẫn tới đình đốn sản xuất. Bài phân tích nhanh dưới đây của tôi cho rằng tâm điểm sắp tới vẫn là chính sách tiền tệ và nỗi lo sắp tới là giảm phát.

Lạm phát và lãi suất
Tính đến tháng 6/2011, chỉ số CPI ở mức 20.82% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với thời điểm cuối năm 2010 khi chỉ số CPI nằm trong khoảng 9-11%. Nếu tính từ đầu năm thì chỉ số này đã tăng 13.29%. Các con số này phần lớn cao hơn con số mục tiêu được chính phủ liên tục điều chỉnh trong thời gian qua, gần nhất là 17% cho năm 2011. Chỉ số CPI hàng tháng tuy vậy đang giảm dần, tháng 6/2011 chỉ còn 1.09% sau khi tăng mạnh vào tháng 4/2011 ở mức 3.32%.
Về phía lãi suất, mặc dù trần huy động là 14%, nhưng hầu hết quan điểm chung cho rằng mức lãi suất này thực tế không tồn tại. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước trong tháng 5/2011 cho rằng mặt bằng lãi suất huy động trung bình khoảng 15.5% và cho vay khoảng 18.7%, có giảm so với trước đó nhưng tăng trung bình 3% so với thời điểm cuối năm 2010. Mặc dù vậy những con số này vẫn được cho là được báo cáo thấp hơn thực tế bởi Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho rằng mặt bằng lãi suất cho vay từ 18-22%, cá biệt lên tới 25-27%[i].
Đồ thị 1: Xu thế chỉ số giá cả (đường đứt quãng là dự báo)
Tài khóa và đầu tư công
Việc mặt bằng lãi suất ở mức cao là điều thường thấy, nhưng không có nghĩa là thường đúng, trong phản ứng chính sách tiền tệ tại Việt nam. Bỏ qua những tranh luận về cách tiếp cận tiền tệ này, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng, việc chống lạm phát có thể sẽ chỉ thực sự thành công nếu đầu tư công được kiểm soát một cách hiệu quả. Báo chí dẫn nguồn từ Ủy ban Kinh tế quốc hội cho biết tổng giá trị cắt giảm đầu tư công tính đến tháng 5/2011 vào khoảng 80,550 tỷ đồng, khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội[ii]. Thoạt nhìn, đây là một con số tích cực thể hiện sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, khi nhìn vào con số đầu tư từ ngân sách nhà nước của tổng cục thống kê, tính đến tháng 5/2011 thì tổng đầu tư từ ngân sách là 73,359 tỷ đồng trong khi cùng kỳ năm 2010, con số này là 45,623 tỷ đồng, thì cách nhìn nhận có thể sẽ thay đổi. Mặc dù đầu tư từ ngân sách không đồng nghĩa với đầu tư công, nhưng con số này cũng cho tôi một băn khoăn là liệu có phải chúng ta đã có kế hoạch đầu tư quá dàn trải để rồi ngay cả khi đang thực hiện cắt giảm theo Nghị quyết 11 của chính phủ thì đầu tư từ ngân sách vẫn tiếp tục ở mức cao nếu xét theo giá trị tuyệt đối? Nếu điều này là đúng, thì dường như kết luận sẽ là chính sách tài khóa đã đi theo hướng tốt, nhưng không phải tốt nhất, bởi thực tế là những khoản đầu tư được cắt giảm là những khoản đầu tư được dự kiến quá mức, trong khi chính sách tài khóa không hẳn là thắt chặt. Do vậy, tâm điểm tác động tới nền kinh tế trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục là chính sách tiền tệ.
Tiền tệ và tín dụng
Mặt bằng lãi suất cao làm giảm tăng trưởng tín dụng bởi một mặt không khuyến khích doanh nghiệp lành mạnh vay vốn trong khi các ngân hàng e ngại việc cho vay vốn đối với những doanh nghiệp kinh doanh rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh tín dụng phi sản xuất được khống chế ở mức 22% vào cuối tháng 6/2011 và 16% vào cuối năm 2011. Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước, trong 6 tháng đầu năm, tổng dư nợ tín dụng chỉ tăng 7.13% so với cuối năm 2010 trong khi mục tiêu của Ngân hàng nhà nước trong năm 2011 là 20%[iii].
Trước đây, tình trạng này thường gắn liền với thanh khoản kém trong hệ thống ngân hàng, nhưng hiện tại thì điều này không còn đúng khi các thông tin mới nhất cho thấy hệ thống ngân hàng đang dồi dào thanh khoản[iv]. Cụ thể, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng đã giảm nhiệt trong vòng một tháng trở lại đây, với lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn ngắn ổn định ở mức 12-13%. Sự tham gia tích cực của các ngân hàng trong việc mua trái phiếu chính phủ có tỷ suất chỉ 13% so với lãi suất tái chiết khấu là 15% cũng là dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng đang thừa thanh khoản.
Tăng trướng tín dụng thấp so với mục tiêu trong khi nhu cầu doanh nghiệp cao, đồng thời thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thuận lợi, cho tôi kết luận rằng mặt bằng lãi suất cao chính là rào cản cho các doanh nghiệp sản xuất tiếp cận vốn tín dụng. Bản thân các ngân hàng do đã phải huy động lãi suất cao nên họ cũng chưa dễ dàng chấp nhận việc giảm lãi suất cho doanh nghiệp. Nếu mặt bằng lãi suất cao mà tăng trưởng tín dụng tăng thì đó quả thực là một nguy cơ đối với nền kinh tế bởi khi đó tín dụng đã được luồn lách để đưa qua nhóm phi sản xuất vốn đang có nhu cầu cao và đang bị khống chế. Nền kinh tế sẽ phát triển khỏe mạnh nếu tín dụng phi sản xuất được khống chế và đồng thời mặt bằng lãi suất phải giảm xuống.
Nỗi lo giảm phát
Sâu chuỗi những lập luận rời rạc nêu trên cho phép tôi vẽ nhanh bức tranh kinh tế Việt nam hiện tại như sau: “Một nền kinh tế đang trải qua thời kỳ khó khăn do các chính sách thắt chặt; chỉ số giá cả CPI lên tới 20.82%; lãi suất cho vay ra nền kinh tế ở mức 20-22%; các ngân hàng không thiếu thanh khoản nhưng chưa sẵn sàng cho vay ra nền kinh tế do chi phí vốn cao trong khi các doanh nghiệp lành mạnh không thể có lãi với chi phí lãi vay quá cao; khoảng 30% doanh nghiệp đã bị phá sản; chính sách tài khóa không hẳn là thắt chặt và do vậy chính sách tiền tệ sẽ vẫn được dùng là công cụ chính để điều tiết kinh tế”.
Trong nền kinh tế này, nếu tiếp cận theo hướng khi nào lạm phát về mức mong đợi thì lúc đó mới giảm lãi suất thì có thể vòng luẩn quẩn mới lại tiếp tục bởi những chính sách giật cục sẽ mang lại những cú sốc với nền kinh tế. Phần lớn giới nghiên cứu đều đưa ra nhận định rằng chỉ số giá hàng tháng đã giảm và chỉ số giá theo năm được dự báo sẽ đạt đỉnh vào tháng 8/2011 ở mức khoảng 22%, cho thấy rằng xu thế lạm phát đang sẵn sàng để thay đổi theo hướng giảm xuống. Vấn đề mấu chốt của quan ngại lạm phát không còn nằm ở việc nó sẽ đạt mức bao nhiêu, mà là xu thế lạm phát có thay đổi hay không.
Theo đánh giá của cá nhân tôi, nếu mặt bằng lãi suất tiếp tục ở mức cao, nền kinh tế Việt nam sẽ đối diện với nguy cơ giảm phát trong thời gian tới bởi sự sụt giảm của cả cung và cầu. Số liệu của tổng cục thống kê tính đến hết tháng 6/2011 cho thấy, trong khi tổng mức bán lẻ hàng hóa giảm đều trong thời gian qua, từ khoảng 25-26% cuối năm trước xuống 22-23% ở hiện tại, thì giá trị sản xuất công nhiệp đã có những sự sụt giảm mạnh trong thời gian gần đây, giảm còn 9.7% so với trung bình khoảng 14% trước đó. Điều này phù hợp với quan sát về sự khó khăn của doanh nghiệp nêu trên và có nghĩa là thời kỳ khó khăn nhất của doanh nghiệp thực sự đang bắt đầu.
Sự khó khăn của doanh nghiệp trong nước và sự giảm sút của sản xuất nội địa cũng được nhìn thấy qua việc tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn trong nửa đầu năm (5.57% so với cùng thời kỳ năm trước) và giá trị thâm hụt thương mại gia tăng (liên tiếp từ tháng 2-5, thâm hụt thương mại trên 1tỷ đô la, tháng Sáu thâm hụt nhẹ là do xuất khẩu vàng). Với những diễn biến này, chúng tôi dự báo chỉ số giá sẽ giảm mạnh trong thời gian tới, và giảm thậm chí dưới 15% vào cuối năm 2011 nếu điều kiện hiện tại tiếp diễn[v].
Đồ thị 2 – Sản xuất công nghiệp và tổng mức bán lẻ hàng hóa (lũy kế so với cùng kỳ)
Đồ thị 3 – Cán cân thương mại
Đồ thị 3 – Tăng trưởng kinh tế
Vài suy nghĩ thay kết luận
Mặc dù những suy nghĩ của tôi có thể không mang tính đại diện, nhưng nỗi lo giảm phát là có thật. Hay dùng từ ngữ nghe thực tế hơn, nguy cơ về việc đình đốn sản xuất là hiện hữu. Bài toán này chỉ có thể giải quyết được nếu mặt bằng lãi suất giảm xuống đồng thời quy định về tín dụng phi sản xuất được tuân thủ nghiêm ngặt. Xét ở khía cạnh công cụ tiền tệ, nếu đợi chỉ số giá giảm xuống để giảm mặt bằng lãi suất thì đó là công việc của thị trường. Còn nếu uốn các mức lãi suất cho vay theo hướng giảm xuống thì đó là công việc của nhà quản lý. Tôi cho rằng một khi các ngân hàng thừa thanh khoản, việc giảm lãi suất cho vay sẽ tạo ra thiệt thòi so với chi phí vốn nhưng điều này có thể còn có lợi hơn nhiều so với việc chờ cho vay lãi suất cao mà không cho vay được. Tôi nghĩ rằng việc khống chế mức trần lãi suất cho vay trong điều kiện hiện tại có thể sẽ không còn tạo ra nhiều sự phản đối như trước.


[i] Xem bài “6 tháng đầu năm, 30% doanh nghiệp đã bị phá sản”, đăng lưu tại: http://vitinfo.vn/MMuctin/Kinhte/LA90398/default.html
[ii] Xem bài “Cắt giảm đầu tư công: Nhìn hiệu quả, lo hậu quả” đăng lưu tại: http://vneconomy.vn/20110625110935254p0c9920/cat-giam-dau-tu-cong-nhin-hieu-qua-lo-hau-qua.htm
[iii] Xem bài “Nên giữ tăng trưởng tín dụng ở mức 23%” đăng lưu tại: http://vneconomy.vn/20110630084053272P0C6/nen-giu-tang-truong-tin-dung-khoang-23.htm
[iv] Xem bài “Thanh khoản ngân hàng đang dồi dào”, đăng lưu tại: http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Thanh-khoan-ngan-hang-doi-dao/48344
[v] IMF cũng đưa ra dự báo lạm phát tại Việt nam cuối năm 2011 vào khoảng 13.75%, xem lưu tại:http://stox.vn/News/imf-du-bao-lam-phat-nam-2011-cua-viet-nam-13-75.html

Tín hiệu kỹ thuật VNIndex 04/07/2011


VN-Index có phiên tăng nhẹ trong giao dịch đầu tuần với khối lượng giao dịch thấp nhưng vẫn có xu hướng giảm. Phiên hôm nay được xem là phiên điều chỉnh nhẹ sau phiên giảm mạnh vào cuối tuần trước. Chỉ báo MACD giảm và chỉ báo ADX tiếp tục đi ngang cho thấy xu hướng giảm này vẫn còn yếu. Đồng thời với những tín hiệu giảm nhẹ hoặc đi ngang của các chỉ báo động lượng cho thấy lực bán vẫn áp đảo lực mua nhưng lực bán này vẫn còn yếu. 

Trong phiên ngày mai, thị trường sẽ Test ngưỡng hỗ trợ 420, nếu không phá được ngưỡng hỗ trợ này thì khả năng thị trường sẽ sideways trong vùng 420 – 450. Chiến lược đầu tư thích hợp lúc này là các nhà đầu tư nên đứng ngoài theo dõi thị trường, không nên có động thái mua vào lúc này.

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

DỰ BÁO XU HƯỚNG LẠM PHÁT DƯỚI GÓC NHÌN KỸ THUẬT

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.

Nguyên nhân của lạm phát chủ yếu là do cầu kéo và do chi phí đẩy. Nhưng đối với Việt Nam thì lạm phát chủ yếu là do chi phí đẩy, tức là chi phí đầu vào hay chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tác động tới giá thành sản phẩm nhằm bảo toàn lợi nhuận và làm cho mức giá chung của nền kinh tế tăng.

Việt Nam là một trong những nước nhập siêu cho nên giá cả hành hóa thế giới sẽ ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó, để phản ánh xu hướng lạm phát trong thời gian tới, chúng ta cần phản ánh được xu hướng giá của hàng hóa thế giới, mà tiêu biểu ở đây tôi xin đơn cử chỉ số CRB Index - Đây là một chỉ số gồm có 22 món nguyên liệu thông dụng nhất trong kinh tế, giá trị của 22 món hàng này rất nhạy cảm với sự thay đổi của kinh tế.

Đồng thời xem xét giữa hai chỉ số CRB Index và chỉ số lạm phát (CPI) có mức độ tương quan cao khi mà tỷ giá hối đoái tại Việt Nam sẽ tiếp tục ổn định quanh mốc 20,560 VND, từ ngày 1/7 diện kết hối được mở rộng sẽ tăng nguồn cung USD trên thị trường.

Vì vậy, để đánh giá xu hướng sắp tới của chỉ số lạm phát (hay chỉ số CPI) chúng ta có thể phân tích xu hướng của chỉ số CRB Index thông qua phương pháp phân tích kỹ thuật.

Mô hình biến động giá của chỉ số CRB Index trong giai đoạn 2006 – 2008:

Mô hình này có 2 đặc điểm quan trọng:

  • Xuất hiện mẫu hình vai đầu vai ngược
  • Tạo đỉnh tại mức 261,8% của Fibonacci

Sau khi tạo đỉnh tại mức 261,8% của Fibonacci, chỉ số CRB Index xuất hiện xu hướng giảm giá sâu vào năm 2009.

Nhìn nhận mô hình biến động giá trong giai đoạn 2009 – 2011:

Với 2 đặc điểm tương tự với mô hình biến động giá của chỉ số CRB Index trong giai đoạn 2006 – 2008 cho nên nhiều nhà đầu tư lo lắng và hạn chế mua vào. Và với tín hiệu kỹ thuật như vậy khả năng lịch sử sẽ lặp lại như giai đoạn 2006 – 2008, đó là sự giảm sâu của chỉ số CRB Index. 

Vì vậy, với mức độ tương quan thuận của chỉ số CRB Index và chỉ số CPI, đồng thời là sự ổn định của tỷ giá trong thời gian tới, tôi cho rằng chỉ số CPI sẽ được bình ổn trở lại sau những tháng tăng mạnh vừa qua.

Nhận định VN-Index tuần từ 04-08/07/2011


Tuần giao dịch vừa qua, VN-Index đã có bốn phiên điều chỉnh đi ngang với khối lượng giao dịch thấp và một phiên cuối tuần giảm mạnh với khối lượng giao dịch cao nhất trong tuần này. Nhìn lại tháng 6, VN-Index đã tạo ra một mẫu hình tam giác hướng xuống và với phiên giao dịch vào đầu tháng 7 đã phá được ngưỡng hỗ trợ 430 để tạo ra xu hướng giảm trong thời gian tới.

Chỉ báo MACD và đường tín hiệu MACD mở rộng, đồng thời chỉ báo ADX đi ngang cho thấy sức mạnh được củng cố và xu hướng giảm rõ rệt hơn. Ngoài ra, dãi Bollinger Bands mở rộng cho thấy xu hướng mới được xác lập.

Tổng hợp những tín hiệu kỹ thuật trên cho thấy VN-Index đã bắt đầu bước vào giai đoạn giảm giá mới cho nên đây được xem là cơ hội các nhà đầu tư xem xét mức đáy mới để giải ngân. Với việc tạo ra mẫu hình tam giác hướng xuống vào tháng 6 và kịch bản Break Down xảy ra, cho nên mức 400 có thể sẽ là mức đáy của VN-Index, nhưng mức này rơi vào mức hỗ trợ 21,6% của Fibonacci – Đây được xem là mức hỗ trợ yếu của Fibonacci hoặc có khả năng thị trường sẽ thiết lập đáy đôi đảo chiều (tức là tại mức đáy cũ 370). Do đó, ngưỡng 400 hoặc 370 sẽ là những ngưỡng hỗ trợ để các nhà đầu tư xem xét.

Market Talk 23/11/2025 – Sau cơn mưa trời sẽ sáng

Các nội dung chính 1.      Mức tăng trưởng của TTCK VN lên mức TÍCH CỰC 2.      Tâm lý sợ hãi quá mức và nhìn lại chu kỳ 3.      Dự bá...